Nuno Fernando Gonçalves da Rocha (sinh ngày 21 tháng 2 năm 1972), hay Capucho (phát âm tiếng Bồ Đào Nha: [kɐˈpuʃu]), là một cựu cầu thủ bóng đá chuyên nghiệp người Bồ Đào Nha từng chơi ở vị trí tiền vệ chạy cánh, hiện là huấn luyện viên. Để có thể biết thêm nhiều thông tin về tiểu sử cũng như sự nghiệp thi đấu của Nuno thì hãy đọc bài viết về Nuno Rocha là ai được tham khảo từ Xoilac ngay phần sau đây nhé.
Tiểu sử Nuno Rocha
Họ và tên | Nuno Fernando Gonçalves da Rocha | ||
---|---|---|---|
Ngày sinh | 21 tháng 2 năm 1972 (51 tuổi) | ||
Nơi sinh | Barcelona, Bồ Đào Nha | ||
Chiều cao | 1,80 m (5 ft 11 in) | ||
(Các) vị trí | cầu thủ chạy cánh | ||
Sự nghiệp tuổi trẻ | |||
1984–1990 | Gil Vicente | ||
Sự nghiệp cao cấp* | |||
Năm | Đội | Trận đấu | Bàn thắng |
1989–1992 | Gil Vicente | 51 | (2) |
1992–1995 | CP Sporting CP | 65 | (10) |
1995–1997 | Vitória Guimarães | 65 | (15) |
1997–2003 | Porto | 188 | (32) |
2003–2004 | Rangers | 22 | (5) |
2004–2005 | Celta | 19 | (0) |
Tổng cộng | 410 | (64) | |
Sự nghiệp quốc tế | |||
1991 | Bồ Đào Nha U20 | số 8 | (1) |
1992–1994 | Bồ Đào Nha U21 | 20 | (2) |
1996 | Olympic Bồ Đào Nha (OP) | 5 | (1) |
1996–2002 | Bồ Đào Nha | 34 | (4) |
Được trời phú cho cả khả năng ghi bàn và rê bóng, anh ấy cũng thể hiện kỹ năng phòng thủ và tắc bóng tốt. Sự nghiệp chuyên nghiệp kéo dài 15 năm của anh chủ yếu gắn liền với Porto (mặc dù anh cũng đại diện cho Sporting CP), qua đó anh đã giành được tổng cộng 13 danh hiệu lớn, xuất hiện trong 368 trận Primeira Liga trong 13 mùa giải, ghi 59 bàn thắng.
Đối với Bồ Đào Nha, Capucho đã xuất hiện ở một kỳ World Cup và một giải vô địch châu Âu, cả hai đều vào đầu những năm 2000.
Sự nghiệp thi đấu của Nuno Rocha
Sự nghiệp thi đấu câu lạc bộ
Capucho sinh ra ở Barcelona. Sau khi bắt đầu với Gil Vicente FC ở quê nhà, anh chuyển đến Sporting CP, nơi anh sẽ được sử dụng tương đối nhiều trong suốt 3 năm thi đấu, giúp đội Lisbon tham dự 1995 Taça de Portugal.
Sau hai mùa giải với Vitória SC của Guimarães, Capucho gia nhập FC Porto, góp mặt trong đội bóng đã giành được ba chức vô địch Primeira Liga và Cúp UEFA 2002–03, bắt đầu từ trận chung kết với Celtic. Thành tích quốc nội tệ nhất của anh ấy diễn ra chính xác ở mùa giải đó, khi ghi 4 bàn sau 27 trận giúp đội bóng miền Bắc giành cú ăn ba.
Capucho sẽ rời Porto trước khi chinh phục UEFA Champions League, anh đã xuất hiện trong gần 250 trận đấu chính thức với câu lạc bộ. Anh giải nghệ vào năm 2005 ở tuổi 32, sau một năm thi đấu cho Rangers của Scotland và RC Celta de Vigo của Segunda División Tây Ban Nha.
Sự nghiệp thi đấu quốc tế
Với 34 lần khoác áo Bồ Đào Nha, Capucho chơi phòng ngự cho quốc gia nhiều hơn so với khi ở Porto, xuất hiện tại UEFA Euro 2000 (hai lần vào sân thay người muộn và xuất phát trong trận gặp Đức, khi Bồ Đào Nha đã vượt qua vòng loại) và FIFA World Cup 2002 (thay thế Sérgio Conceição trong trận thắng Ba Lan 4–0). Sau khi Luiz Felipe Scolari đảm nhận vị trí huấn luyện viên đội tuyển quốc gia vào đầu năm 2003, ông không bao giờ được triệu tập nữa.
Năm 1991, Capucho chỉ vắng mặt một trận khi đội U20 (bao gồm cả Rui Costa, Luís Figo và João Pinto) vô địch FIFA World Cup, chơi trên sân nhà.
Sự nghiệp huấn luyện viên
Capucho trở lại Porto vào mùa hè năm 2007, được giao nhiệm vụ huấn luyện các đội trẻ trong vài năm. Công việc đầu tiên của anh ở cấp độ chuyên nghiệp diễn ra vào mùa giải 2015–16, khi anh dẫn dắt Varzim SC mới thăng hạng đến vị trí thứ chín (trong số 24 đội) tại Segunda Liga. Sau đó, anh chuyển đến giải đấu hàng đầu với người hàng xóm Rio Ave FC, bị sa thải vào ngày 10 tháng 11 năm 2016 do kết quả kém.
Vào tháng 10 năm 2017, Capucho trở lại Varzim. Anh ấy rời đi vào tháng 12 năm sau, theo sự đồng ý của cả hai. Vào ngày 8 tháng 4 năm 2019, Capucho được bổ nhiệm vào CD Mafra, đội đang đứng thứ tám ở giải hạng hai sau chín trận không thắng khiến Filipe Pedro mất việc. Anh thắng một và hòa hai trong năm trận còn lại của họ, sau đó chọn chia tay.
Capucho kế nhiệm Daúto Faquirá tại SC Covilhã vào ngày 25 tháng 9 năm 2020, sau khi họ thua ba trận đầu tiên của mùa giải mới. Anh ấy rời đi vào ngày 9 tháng 2 sau đó, với đội hơn khu vực xuống hạng ba điểm mặc dù tồn đọng lịch thi đấu; anh ấy đã bắt đầu với chuỗi bảy trận bất bại và kết thúc với chuỗi tám trận không thắng.
Danh hiệu và thành tích
Sporting CP
- Taça de Bồ Đào Nha: 1994–95
Porto
- Primeira Liga: 1997–98, 1998–99, 2002–03
- Taça de Bồ Đào Nha: 1997–98, 1999–2000, 2000–01, 2002–03
- Supertaça Cândido de Oliveira: 1997, 1998, 1999, 2000, 2001
- Cúp UEFA: 2002–03
Bồ Đào Nha U20
- Giải vô địch bóng đá U-20 thế giới: 1991
Ý kiến bạn đọc (0)